Nguồn gốc Người_Ấn-Scythia

Bài chi tiết: Người Saka
Một người Scythia cưỡi ngựa trong khu vực bị người Nguyệt Chi xâm chiếm, Pazyryk, khoảng năm 300 TCNTài sản trong lăng mộ vua chúa tại Tillia tepe được cho là của người Saka thế kỷ 1 tại Bactria.

Tổ tiên của người Ấn-Scythia được cho là những bộ lạc người Saka (Scythia).

"Một nhóm những người nói ngôn ngữ Ấn-Âu, đã xuất hiện sớm trong khu vực Tân Cương là người Saka (Ch. Sai) Saka là một thuật ngữ chung chung hơn một cái tên cho một nhà nước cụ thể hoặc một nhóm dân tộc; những bộ lạc Saka là một phần của một nền văn hóa của những người du mục vượt qua Xibia và vùng đất thảo nguyên Trung Á-Âu từ Tân Cương đến biển Đen. Người Scythia mà Herodotus mô tả trong cuốn bốn tác phẩm Lịch sử của ông (Saka là một từ Iran tương đương với từ Scythos trong tiếng Hy Lạp, và nhiều học giả quy cho họ lại với nhau như là người Saka-Scythia), Sakas là những người du mục cưỡi ngựa nói tiếng Iran đã triển khai chiến xa trong trận chiến, hiến tế ngựa, và chôn cất người chết trong các gò mộ hay những ngôi mộ gò đất được gọi là kurgan "[3]

.

Sự bành trướng của người Nguyệt Chi

Trong thế kỷ 2 TCN, một trào lưu di cư mới đã bắt đầu trong số các bộ lạc ở Trung Á, đã gây ra ảnh hưởng lâu dài về mặt lịch sử đối với Roma ở châu Âu và Bactria, Kabul, Parthia và Ấn Độ ở phía đông. Nó được ghi lại trong biên niên sử của nhà Hán và các ghi chép khác của Trung Quốc, trào lưu đại di cư của các bộ lạc bắt đầu sau khi các bộ lạc Nguyệt Chi bị người Hung Nô đánh bại, họ chạy trốn về phía tây sau thất bại này và tạo ra một hiệu ứng dây chuyền khi họ xua đuổi các bộ tộc Trung Á khác trên đường đi của mình.

Văn học Ấn Độ đã sớm ghi chép lại liên minh quân sự giữa người Saka, Kamboja, Pahlava và Parada. Truyền thuyết Purana cổ xưa đã đề cập đến một vài cuộc đồng xâm lược Ấn Độ bởi người Scythia. Cuộc xung đột giữa Bahu-Sagara của Ấn Độ và Haihaya-Kamboja-Saka-Pahlava-Parada cũng được gọi là cuộc chiến tranh chống lại "năm bộ lạc du mục" (Panca-ganha). Người Saka, Yavana, Tushara và Kamboja cũng tham chiến trong cuộc chiến tranh Kurukshetra dưới sự chỉ huy của Sudakshina Kamboja. Trong tác phẩm Valmiki Ramayana cũng chứng thực rằng người Saka, Kamboja, Pahlava và Yavana đã cùng chiến đấu với nhau chống lại vua Hindu Vishwamitra của Kanauj

Vào khoảng năm 177 TCN, Mặc Đốn đã chỉ huy người Hung Nô đánh vào lãnh thổ của người Nguyệt Chi tại khu vực Cam Túc và đã giành được thắng lợi quan trọng. Mặc Đốn khoe khoang trong một bức thư gửi cho hoàng đế nhà Hán rằng, do "sự tuyệt vời của các chiến binh, và sức mạnh của bầy ngựa của mình, ông đã giành thắng lợi trong việc tiêu diệt người Nguyệt Chi, tàn sát hoặc ép phục tùng toàn bộ bộ lạc này".

Theo các sử liệu Trung Quốc, một phần lớn người Nguyệt Chi vì thế đã nằm dưới sự thống trị của người Hung Nô, và họ có thể là tổ tiên của những người nói tiếng Tochari đã được chứng thực vào thế kỷ 6. Một nhóm rất nhỏ người Nguyệt Chi chạy về phía nam tới lãnh thổ của người Khương, và được người Trung Quốc biết đến như là "Tiểu Nguyệt Chi". Theo Hán thư, họ chỉ có khoảng 150 gia đình.

Cuối cùng, một nhóm lớn người Nguyệt Chi đã chạy khỏi khu vực lòng chảo Tarim/Cam Túc về phía tây bắc, đầu tiên định cư tại thung lũng Ili, ngay phía bắc dãy núi Thiên Sơn, tại đó họ phải đương đầu và đánh bại người Sai/Tắc (người Saka hay người Scythia): "Người Nguyệt Chi tấn công vua của người Tắc, kẻ đã di chuyển một khoảng cách đáng kể về phía nam và người Nguyệt Chi sau đó đã chiếm đất của ông ta" (Hán Thư 61 4B). Người Sai cũng phải di cư, và họ đã tới Kashmir, sau khi vượt qua "chỗ vượt lơ lửng" (có lẽ là đèo Khunjerab giữa Tân Cương và miền bắc Pakistan ngày nay).

Sau năm 155 TCN, người Ô Tôn, liên kết với người Hung Nô và để trả thù cho các mâu thuẫn trước đây, đã xua đuổi người Nguyệt Chi và ép họ phải chạy về phía nam. Người Nguyệt Chi đã vượt qua khu vực văn minh đô thị láng giềng là Đại Uyên tại Ferghana, và định cư trên bờ phía bắc của sông Oxus, trong khu vực của Transoxiana, ngày nay thuộc TajikistanUzbekistan, chỉ ngay phía bắc của Vương quốc Hy Lạp-Bactria. Thành phố Alexandria trên sông Oxus của người Hy Lạp dường như đã bị người Nguyệt Chi đốt cháy hoàn toàn vào khoảng năm 145 TCN.

Ở Parthia, khoảng những năm 138-124 TCN, các bộ lạc MassagetaeSacaraucae đã tham gia vào cuộc xung đột với đế chế Parthia, chiến thắng nhiều trận, và giết chết liền hai vị vua Phraates IIArtabanus I.

Vua Parthia, Mithridates II cuối cùng đã tái khôi phục lại sự kiểm soát Trung Á, đầu tiên là đánh bại người Nguyệt Chi ở Sogdiana trong năm 115 TCN, và sau đó đánh bại người Scythia ở Parthia và Seistan khoảng năm 100 TCN.

Sau thất bại của họ, các bộ lạc Nguyệt Chi di cư vào Bactria, nơi mà họ kiểm soát nhiều thế kỷ sau, và từ đó, sau đó họ chinh phục miền bắc Ấn Độ để thành lập Vương quốc Quý Sương.

Định cư ở Sakastan

Bản đồ Sakastan khoảng năm 100 TCN.

Người Saka đã định cư tại các khu vực ở phía đông Iran, mà vẫn được gọi cho tới sau này là Sistan. Từ đó, họ dần dần mở rộng vào tiểu lục địa Ấn Độ, nơi đó họ đã thiết lập một loạt các vương quốc khác nhau, và là nơi họ được gọi là người "Ấn-Scythia".

Hoàng đế nhà Arsaces, Mithridates II (khoảng 123-88/87 TCN) đã được ghi nhận nhiều thành công chống lại người Scythia và thêm nhiều tỉnh vào đế chế Parthia,[4] và dường như nhóm dân du mục Scythia đến từ Bactria cũng đã bị chinh phục bởi ông ta. Một phần của những người này đã di chuyển từ Bactria tới hồ Helmond trong náo động từ áp lực của người Nguyệt Chi và định cư tại Drangiana (Sigal), một khu vực mà sau này được gọi là "Sakistana của người Sakai (Scythia) Skythian",[5] vào khoảng cuối thế kỷ 1 TCN[6]. Khu vực này vẫn còn được gọi là Seistan.

Sakistan hoặc Seistan Drangiana có thể không chỉ là vùng đất sinh sống của một mình dân Saka nhưng cũng có thể có cả người PahlavaKamboja[7] Sắc lệnh trên đá của vua Ashoka chỉ đề cập tới người Yavana, Kamboja và Gandhara ở phía tây bắc, nhưng không có gì đề cập đến người Saka, những người di cư tới khu vực này hơn một thế kỷ sau đó.

Sự hiện diện của người Saka ở Sakastan trong thế kỷ 1 TCN đã được đề cập bởi Isidore của Charax trong tác phẩm "những trạm của người Parthia" của ông. Ông giải thích rằng họ đã có biên giới vào thời điểm đó với các thành phố Hy Lạp ở phía đông (Alexandria của CaucasusAlexandria của Arachosia) và người Parthia kiểm soát vùng đất Arachosia ở phía nam:

"Ở phía ngoài kia là Sacastana của người Sacae-Scythia, mà cũng là Paraetacena, 63 schoeni. Thành phố Barda và thành phố Min và thành phố Palacenti và thành phố Sigal, ở nơi đó là nơi cư ngụ của hoàng gia Sacae; và gần đó là thành phố Alexandria (Alexandria của Arachosia), và sáu ngôi làng". Những trạm của người Parthia, 18.[8]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Người_Ấn-Scythia http://www.boloji.com/history/027.htm http://sites.google.com/site/grecoindian/Home/hist... http://www.grifterrec.com/coins/indoscythian/indos... http://www.iranica.com/newsite/articles/ot_grp8/ot... http://www.parthia.com/parthian_stations.htm http://kunst.zeit.de/uploads/pics/WK_09_06_L__we_4... http://people.bu.edu/ptandon/Paratarajas2.pdf http://muse.jhu.edu/journals/jwh/ http://depts.washington.edu/silkroad/texts/weilue/... http://sanskrit.inria.fr/Dico.pdf